Lao kháng thuốc là gì? Các công bố khoa học về Lao kháng thuốc

Lao kháng thuốc là dạng vi khuẩn Mycobacterium tuberculosis đề kháng với ít nhất một thuốc chống lao, gây khó khăn cho điều trị. Nguyên nhân chính do sử dụng thuốc không đúng cách, điều trị không đầy đủ, liều lượng sai, chất lượng thuốc kém, và lây nhiễm từ người khác. Loại lao này phân thành lao đa kháng thuốc (MDR-TB) và lao siêu kháng thuốc (XDR-TB). Triệu chứng giống lao thông thường nhưng kéo dài và nặng hơn. Chẩn đoán và điều trị cần xét nghiệm phức tạp và thời gian điều trị dài. Phòng ngừa yêu cầu điều trị đúng, tuân thủ liệu trình, và giám sát kháng thuốc.

Lao kháng thuốc: Tổng quan

Lao kháng thuốc là một biến thể của bệnh lao gây ra bởi vi khuẩn Mycobacterium tuberculosis. Không giống như lao thông thường, lao kháng thuốc đề kháng với ít nhất một trong các loại thuốc chính được sử dụng để điều trị bệnh lao, điều này làm phức tạp quá trình điều trị và kiểm soát bệnh dịch. Lao kháng thuốc là một trong những thách thức lớn đối với y tế công cộng trên toàn cầu.

Nguyên nhân của Lao kháng thuốc

Lao kháng thuốc xuất hiện do nhiều nguyên nhân, trong đó quan trọng nhất là việc sử dụng không đúng cách thuốc chống lao. Các yếu tố góp phần bao gồm:

  • Điều trị không đầy đủ: Việc không hoàn thành liệu trình điều trị hoặc dùng thuốc không đều có thể dẫn đến sự phát triển của vi khuẩn kháng thuốc.
  • Liều lượng không đúng: Sử dụng liều thuốc không đúng hoặc công thức không thích hợp có thể không diệt được vi khuẩn hoàn toàn.
  • Chất lượng thuốc kém: Thuốc kém chất lượng, hết hạn sử dụng có thể mất tác dụng, không đạt hiệu quả điều trị mong muốn.
  • Lây nhiễm từ bệnh nhân khác: Những người đã nhiễm vi khuẩn lao kháng thuốc có thể lây lan bệnh cho người khác.

Phân loại Lao kháng thuốc

Lao kháng thuốc được phân loại dựa trên mức độ kháng thuốc của vi khuẩn:

  • Lao đa kháng thuốc (MDR-TB): Đề kháng với ít nhất là isoniazid và rifampicin, hai trong số các thuốc chống lao mạnh nhất.
  • Lao siêu kháng thuốc (XDR-TB): Không chỉ kháng isoniazid và rifampicin, mà còn kháng thêm với bất kỳ fluoroquinolone và ít nhất một trong ba thuốc tiêm hàng thứ hai (amikacin, kanamycin, hoặc capreomycin).

Triệu chứng của Lao kháng thuốc

Triệu chứng của lao kháng thuốc tương tự như lao thông thường, bao gồm ho kéo dài, sốt, đổ mồ hôi đêm, giảm cân, và mệt mỏi. Tuy nhiên, triệu chứng có thể kéo dài lâu hơn và nặng hơn so với lao thông thường.

Phương pháp chẩn đoán và điều trị

Chẩn đoán lao kháng thuốc thường yêu cầu các xét nghiệm phức tạp hơn so với lao thông thường, chẳng hạn như nuôi cấy vi khuẩn và thử nghiệm kháng sinh đồ. Điều trị bao gồm sử dụng một tổ hợp các thuốc chống lao hàng thứ hai trong một thời gian dài hơn, có thể kéo dài từ 18 đến 24 tháng.

Phòng ngừa Lao kháng thuốc

Phòng ngừa lao kháng thuốc dựa trên việc đảm bảo điều trị đúng cách cho tất cả các ca bệnh lao, bao gồm việc sử dụng đúng liều, duy trì tuân thủ điều trị, và hạn chế tối đa nguy cơ lây nhiễm. Xây dựng hệ thống giám sát và quản lý tốc độ kháng thuốc cũng rất cần thiết để kiểm soát lao kháng thuốc.

Kết luận

Lao kháng thuốc là một thách thức nghiêm trọng đối với sức khỏe cộng đồng toàn cầu. Quản lý hiệu quả lao kháng thuốc đòi hỏi sự phối hợp giữa các ngành y tế, khoa học và xã hội để đảm bảo bệnh nhân có cơ hội được điều trị đúng cách và ngăn ngừa sự lây lan trong cộng đồng.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "lao kháng thuốc":

Phân Tích Mẫu Máu Khô cho Giám Sát Liều Thuốc Linezolid ở Bệnh Nhân Lao Kháng Thuốc Đa Phương Dịch bởi AI
Antimicrobial Agents and Chemotherapy - Tập 56 Số 11 - Trang 5758-5763 - 2012
TÓM TẮT

Linezolid là một loại tác nhân kháng khuẩn tiềm năng trong điều trị bệnh lao đa kháng thuốc (MDR-TB), nhưng việc sử dụng nó bị hạn chế do độc tính. Giám sát liều thuốc điều trị (TDM) có thể giúp giảm thiểu độc tính trong khi vẫn duy trì sự phơi nhiễm thuốc thích hợp. Việc lấy mẫu và theo dõi thông qua huyết tương thông thường có thể gặp trở ngại ở nhiều nơi trên thế giới do các vấn đề về logistics mà có thể giải quyết được bằng cách lấy mẫu máu khô (DBS). Mục tiêu của nghiên cứu này là phát triển và xác thức một phương pháp mới để TDM của linezolid ở các bệnh nhân MDR-TB bằng cách sử dụng lấy mẫu DBS. Mẫu huyết tương, DBS từ tĩnh mạch và DBS từ mao quản được thu thập đồng thời từ tám bệnh nhân đang nhận linezolid. Một phương pháp lấy mẫu DBS đã được phát triển và xác nhận lâm sàng bằng cách so sánh DBS với kết quả huyết tương sử dụng hồi quy Passing-Bablok và phân tích Bland-Altman. Nghiên cứu này cho thấy phân tích DBS là có thể tái sản xuất và ổn định. Độ chính xác và giá trị độ chính xác giữa các ngày và trong ngày từ ba lần xác nhận được trình bày dưới dạng độ lệch và hệ số biến thiên (CV) ít hơn 17.2% đối với giới hạn dưới của định lượng và ít hơn 7.8% đối với các mức khác. Phương pháp cho thấy khả năng thu hồi cao khoảng 95% và tác động ma trận thấp dưới 8.7%. Mẫu DBS ổn định ở 37°C trong 2 tháng và ở 50°C trong 1 tuần. Tỷ lệ nồng độ của linezolid trong mẫu DBS so với trong huyết tương là 1.2 (khoảng tin cậy 95% [CI], 1.12 đến 1.27). Sự phơi nhiễm linezolid được tính toán từ các nồng độ mẫu DBS và huyết tương cho thấy sự tương đồng tốt. Kết luận, phân tích DBS của linezolid là một công cụ đầy hứa hẹn để tối ưu hóa điều trị linezolid ở bệnh nhân MDR-TB. Quy trình lấy mẫu dễ dàng và độ ổn định của mẫu cao có thể thuận lợi cho TDM, thậm chí ở những nước kém phát triển có nguồn lực hạn chế và việc lấy mẫu huyết tương thông thường không khả thi.

#DBS #giám sát thuốc điều trị #linezolid #lao đa kháng thuốc #mẫu máu khô.
BỆNH LAO KHÁNG RIFAMPICIN TẠI THÁI NGUYÊN
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 500 Số 2 - 2021
Mục tiêu: mô tả đặc điểm lâm sàng và phân tích một số yếu tố liên quan đến kết quả điều trị RR-TB. Phương pháp: nghiên cứu mô tả, thời gian từ 2016 – 2020 tại Bệnh viện Lao và bệnh Phổi Thái Nguyên. Chọn mẫu toàn bộ bệnh nhân xét nghiệm Xpert MTB/RIF có RR-TB điều trị phác đồ chuẩn 11 tháng 4-6 Km Lfx Pto Cfz Z H liều cao E/5 Lfx Cfz Z E. Kết quả: có 948/4187 (22,6%) MTB/RIF (+), thu được 83/948 (8,8%), RR-TB có nguồn là thể lao mới chiếm 27/675 (4%); thể lao cũ là 43/215 (20%) và thể lao ngoài phổi là 13/58 (1,2%). Có 60 (72,3%) RR-TB điều trị phác đồ 11 tháng. Kết quả điều trị tốt đạt 48 (80%) và kém là 12 (20%). Kết luận: RR-TB thường gặp nhiều ở nhóm tuổi trung niên, thể lao cũ, soi đờm có AFB (+), tổn thương Xquang Phổi rộng. Các yếu tố ảnh hưởng kém đến kết quả điều trị RR-TB là: thể lao cũ, khám phổi có ran, soi đờm có AFB (+), Xquang Phổi có hang.
#Bệnh Lao #Kháng thuốc #Đa kháng thuốc #Xpert mtb/rif #Thái Nguyên
NGHIÊN CỨU MỘT SỐ YẾU TỐ NGUY CƠ CỦA LAO PHỔI KHÁNG RIFAMPICIN TẠI TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
Tạp chí Truyền nhiễm Việt Nam - Tập 2 Số 42 - Trang 41-46 - 2023
Mở đầu: Lao kháng thuốc là mối quan tâm lớn về sức khỏe cộng đồng ở nhiều quốc gia. Bệnh lao kháng rifampicin là một trong những yếu tố dự báo cho bệnh lao đa kháng thuốc vì hơn 90% bệnh lao kháng rifampicin có kháng isoniazid kèm theo. Mục tiêu: 1. Mô tả các đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của bệnh nhân lao phổi kháng rifampicin. 2. Tìm hiểu một số yếu tố nguy cơ ở bệnh nhân lao phổi kháng rifampicin. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 157 bệnh nhân lao phổi được chẩn đoán bằng xét nghiệm Xpert MTB/RIF tại Bệnh viện Trung ương Huế và Bệnh viện Phổi tỉnh Thừa Thiên Huế từ tháng 01/2021 đến 9/2022. Kết quả: Nam giới chiếm đa số trong nhóm nghiên cứu (90,3%), độ tuổi trung bình: 48,19 ± 2,997, chỉ số BMI ≤ 18,5 kg/m2 (61,3%), có tiền sử điều trị với thuốc kháng lao (64,5%). Các triệu chứng toàn thân thường gặp: mệt mỏi (74,2%), chán ăn (71%), sụt cân (71%). Các triệu chứng cơ năng thường gặp: ho khạc đờm kéo dài (77,4%), khó thở (51,6%), đau ngực (67,7%), ho ra máu (16,1%). Lao phổi kháng rifampicin hầu hết đều có triệu chứng thực thể tại phổi (80,6%). Xét nghiệm AFB đờm thường dương tính (64,5%) với mức độ dương tính là 1+ (45%), 2+ (30%), 3+ (20%). Mức độ tổn thương theo ATS trên X quang ngực thẳng thường gặp ở mức độ II (45,2%), độ III (48,4%), vị trí tổn thương có xu hướng lan tỏa (51,6%) với các tổn thương: thâm nhiễm (96,8%), xơ (51,6%), nốt (19,4%), hang (41,9%). Có mối liên quan giữa lao phổi kháng rifampicin và có tiền sử điều trị lao (OR = 10,557, 95%CI: 3,263 - 34,150), có triệu chứng thực thể tại phổi (OR = 4,159, 95%CI: 1,016 - 17,031) kèm tổn thương hang (OR = 6,415, 95%CI: 1,819 - 22,624) và nốt (OR = 10,649, 95%CI: 1,438 - 78,846) trên phim X quang ngực thẳng. Kết luận: Có mối liên quan giữa lao phổi kháng rifampicin và có tiền sử điều trị lao, có triệu chứng thực thể tại phổi, kèm tổn thương hang hoặc nốt trên phim X quang ngực thẳng.
#Lao phổi #lao kháng thuốc #rifampicin
ĐÁNH GIÁ TÍNH AN TOÀN CỦA ĐIỀU TRỊ LAO PHỔI KHÁNG ĐA THUỐC ĐƠN THUẦN BẰNG PHÁC ĐỒ NGẮN HẠN TẠI BỆNH VIỆN PHỔI HÀ NỘI
Tạp chí Y học Cộng đồng - Tập 60 Số 7 - 2021
Mục tiêu: Nghiên cứu được tiến hành nhằm mụctiêu mô tả đặc điểm lâm sàng của người lao phổi khángđa thuốc đơn thuần và đánh giá tính an toàn của phác đồđiều trị ngắn hạn trong điều trị lao phổi kháng đa thuốcđơn thuần.Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu thuần tậpđược tiến hành trên 124 người bệnh lao phổi kháng đathuốc đơn thuần, được điều trị bằng phác đồ chuẩn ngắnhạn tại Bệnh viện Phổi Hà Nội từ tháng 04 năm 2016 đếntháng 12 năm 2018.Kết quả: Kết quả soi đờm trực tiếp AFB(-) 47,6%,AFB(3+) 5,6%, AFB(2+) 7,3%, AFB(1+) 35,5% và 1-9AFB/100VT là 4,0%. Người bệnh có tổn thương phổi trênXquang dạng xơ là 70,2%, nốt 67,7%, thâm nhiễm 56,5%,hang 16,9%. Tổn thương ở cả hai phổi là 62,9%. Phác đồđược đánh giá là an toàn trên 58,9%. Tỷ lệ đầy bụng khótiêu 10,5%, nôn, buồn nôn 8,9%, chóng mặt 8,9%, chánăn 8,1%, đau khớp 4,8%, giảm thính lực 4,3%.Kết luận: Phác đồ điều trị chuẩn ngắn hạn là phácđồ có tính an toàn với các tác dụng không mong muốnthấp. Các triệu chứng nay đều trở về bình thường sau khikết thúc điều trị.Từ khóa: Người bệnh lao phổi đa kháng thuốc;Bệnh viện Phổi Hà Nội
#Người bệnh lao phổi đa kháng thuốc; Bệnh viện Phổi Hà Nội
SO SÁNH ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ CẬN LÂM SÀNG CỦA BỆNH NHÂN LAO PHỔI MỚI AFB DƯƠNG TÍNH VÀ ÂM TÍNH TẠI BỆNH VIỆN QUÂN Y 103
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 518 Số 1 - 2022
Mục tiêu: So sánh đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh nhân lao phổi mới AFB dương tính và âm tính tại Bệnh viện Quân y 103. Đối tượng và phương pháp: nghiên cứu tiến cứu, mô tả cắt ngang trên 42 bệnh nhân lao phổi mới AFB dương tính và âm tính, điều trị từ tháng 12/2021 đến 06/2022. Kết quả: Tuổi trung bình của bệnh nhân lao phổi AFB dương tính là 51,32 ± 20,13 tuổi, thấp hơn nhóm AFB âm tính là 63,12 ± 15,51 tuổi (p<0,05). Các triệu chứng khạc đờm, mệt mỏi gặp nhiều hơn ở nhóm AFB dương tính với tỉ lệ lần lượt là 59,5%, 21,4% so với 41,2%, 0% ở nhóm AFB âm tính (p<0,05). Tổn thương trên Xquang chủ yếu ở thùy trên, hay gặp nhất là hình ảnh thâm nhiễm, tổn thương 2 bên ở cả 2 nhóm. Hình ảnh hang gặp nhiều hơn ở nhóm AFB dương tính có ý nghĩa thống kê so với ở nhóm AFB âm tính. 4,76% bệnh nhân có kháng thuốc chống lao hàng thứ nhất. Kết luận: Bệnh nhân lao phổi AFB dương tính mắc bệnh ở độ tuổi trẻ hơn, nhiều triệu chứng cơ năng và tổn thương thâm nhiễm, hang trên hình ảnh Xquang so với nhóm bệnh nhân lao phổi AFB âm tính.
#Lao phổi mới #AFB #kháng thuốc
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG VÀ TÍNH KHÁNG THUỐC Ở BỆNH NHÂN LAO PHỔI TÁI PHÁT ĐIỀU TRỊ TẠI BỆNH VIỆN PHẠM NGỌC THẠCH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 499 Số 1-2 - 2021
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng ở bệnh nhân lao phổi tái phát. Đối tượng và phương pháp: 56 BN, nam/nữ= 2.3 (39/17). Nam gặp nhiều ở lứa tuổi từ 18 – 70, nữ gặp nhiều từ 18 tuổi đến 40. Nghiên cứu tiến cứu, mô tả cắt ngang, theo dõi dọc trên 56 bệnh nhân lao phổi tái phát được đăng ký điều trị nội, ngoại trú tại Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch, thành phố Hồ Chí Minh, trong khoảng thời gian 02 tháng. Kết quả: Triệu chứng toàn thân gặp nhiều nhất là sốt 57,14%; Triệu chứng cơ năng phổ biến nhất là ho kéo dài 71,43%. Triệu chứng thực thể nghèo nàn, ran nổ gặp tỷ lệ 39,28%. X quang phổi: tổn thương phổi phải nhiều hơn phổi trái (46,43% so với 32,14%), thâm nhiễm không thuần nhất chiếm tỷ lệ cao nhất, 64,28%. Kết quả xét nghiệm AFB đờm (+) chiếm 58,93%, AFB âm tính 41,07%. Có 12 bệnh nhân kháng INH chiếm 21,42%; có 5 bệnh nhân kháng RMP + INH chiếm 8,93% và 39 bệnh nhân không kháng, chiếm 69,64%. Kết luận:  Lao phổi kháng thuốc hay tái phát là vấn đề luôn có tính thời sự. Việc điều trị khó khăn và phức tạp hơn bệnh lao mắc mới. Nghiên cứu về lâm sàng và xét nghiệm là cần thiết và có tính khoa học, ứng dụng thực tiễn cao.
#Lao phổi #lao kháng thuốc #lao phổi tái phát
MỐI TƯƠNG QUAN GIỮA ĐẶC ĐIỂM KHÁNG THUỐC LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG CỦA BỆNH NHÂN LAO PHỔI TÁI PHÁT SAU 2 THÁNG ĐIỀU TRỊ
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 499 Số 1-2 - 2021
Mục tiêu: Nghiên cứu mối tương quan giữa đặc điểm kháng thuốc với lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh nhân lao phổi tái phát. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu, mô tả cắt ngang, theo dõi dọc trên 56 bệnh nhân lao phổi tái phát được đăng ký điều trị nội, ngoại trú tại Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch, thành phố Hồ Chí Minh, trong thời gian 02 tháng. Kết quả: Các triệu chứng sốt, ho, khó thở gặp nhiều ở bệnh nhân đơn kháng. X quang: Tổn thương mức độ hẹp BN lao phổi đa kháng cao hơn nhóm đơn kháng( 50% so với 25%). Mức độ vừa và mức độ rộng chỉ gặp ở nhóm đơn kháng (kháng INH), không gặp ở nhóm đa kháng. Hang lao gặp 100% ở bệnh nhân đa kháng, đơn kháng gặp 25%. Mức độ AFB đờm liên quan tới đặc điểm kháng thuốc: Nhóm BN AFB (1+) có 7 BN nhóm kháng INH và 3 BN nhóm kháng RMP + INH. BN AFB (2+) gặp nhóm kháng INH là 3 BN và nhóm kháng RMP + INH là 1 BN. BNAFB (3+), gặp 2 BN ở nhóm kháng INH, và 1 BN ở nhóm kháng RMP + INH. Nhóm BN kháng INH và kháng RMP + INH không có sự khác biệt về mối liên quan giữa các mức độ AFB (+). Kết luận: Lao phổi kháng thuốc có nhiều điểm khác biệt về lâm sàng và cận lâm sàng so với lao phổi mới. Việc đánh giá mối tương quang giữa LS, CLS với đặc tính kháng thuốc của lao phổi có nhiều ý nghĩa cho việc điều trị và dự phòng lao.
#Lao phổi kháng thuốc #lao đa kháng #lao đơn kháng #lao tái phát
7. CA BỆNH HẸP ĐƯỜNG THỞ DO LAO KHÁNG ISONIAZID, LEVOFLOXACIN TẠI BỆNH VIỆN PHỔI TRUNG ƯƠNG NĂM 2023
Tạp chí Y học Cộng đồng - Tập 65 Số CD3 - Bệnh viện Phổi Trung ương - Trang - 2024
Chúng tôi báo cáo ca bệnh hẹp đường thở do lao ở bệnh nhân nữ 17 tuổi kháng Isoniazid, Levofloxacin (INH, Lfx) được chẩn đoán dựa vào chụp cắt lớp vi tính lồng ngực, nội soi phế quản, nuôi cấy. Đây là ca bệnh chẩn đoán muộn, triệu chứng giống các bệnh lý hô hấp khác. Bệnh nhân đã được điều trị nội khoa và kết quả tiến triển tốt.  
#Hẹp đường thở do lao #lao kháng thuốc #kháng isoniazid #kháng levofloxacin.
8. BÁO CÁO TRƯỜNG HỢP LAO PHỔI TIỀN SIÊU KHÁNG THUỐC KẾT HỢP LAO GAN TẠI BỆNH VIỆN PHỔI TRUNG ƯƠNG NĂM 2023
Tạp chí Y học Cộng đồng - Tập 65 Số CD3 - Bệnh viện Phổi Trung ương - Trang - 2024
Mục tiêu: Chúng tôi báo cáo ca bệnh lao phổi tiền siêu kháng thuốc kết hợp lao gan hiếm gặp, với hi vọng góp tiếng nói của mình trong thống kê y học, cũng như chia sẻ kinh nghiệm trong chẩn đoán và điều trị bệnh lý hiếm gặp này. Báo cáo ca bệnh: Chúng tôi báo cáo một trường hợp bệnh nhân nữ, 21 tuổi nhập viện với triệu chứng ho khạc đờm vàng, thi thoảng lẫn ít dây máu đỏ tươi kèm sốt thất thường về chiều tối, không có triệu chứng về tiêu hóa. Bệnh nhân tình cờ phát hiện tổn thương phúc mạc bao gan và tổn thương nhu mô gan qua siêu âm ổ bụng và được khẳng định chẩn đoán bằng chụp cộng hưởng từ ổ bụng và sinh thiết nốt phúc mạc bao gan. Kết quả mô bệnh học bệnh phẩm sinh thiết là tổn thương viêm hạt gợi ý do lao. Chúng tôi chẩn đoán đây là một trường hợp lao phổi tiền siêu kháng thuốc kết hợp lao phúc mạc và lao gan. Bệnh nhân được điều trị thuốc lao theo hướng dẫn của Chương trình Chống lao Quốc gia và các khuyến cáo trên thế giới. Sau 10 tháng điều trị, bệnh nhân đáp ứng tốt về triệu chứng lâm sàng, tổn thương phổi trên phim X-quang ngực và tổn thương trên phim chụp cộng hưởng từ ổ bụng. Bàn luận: Bàn luận về dịch tễ, chẩn đoán và điều trị lao gan. Chúng tôi phân tích quá trình chẩn đoán ca bệnh này dựa trên bệnh cảnh lâm sàng và các xét nghiệm chẩn đoán hình ảnh cũng như các xét nghiệm vi sinh và mô bệnh học. Kết luận: Đây là trường hợp lao phổi tiền siêu kháng kết hợp lao gan hiếm gặp.  
#Lao gan; lao gan tiền siêu kháng thuốc; lao phổi kết hợp lao gan.
8. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NGƯỜI BỆNH LAO KHÁNG ĐA THUỐC TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Tạp chí Y học Cộng đồng - Tập 65 Số 2 - Trang - 2024
Đặt vấn đề: Là 1 trong 27 quốc gia có gánh nặng bệnh lao cao trên thế giới, Việt Nam cũng đang phải đối mặt với rất nhiều thách thức từ bệnh lao, đặc biệt là bệnh lao kháng thuốc. Bên cạnh việc phát hiện, chẩn đoán, điều trị lao kháng thuốc, công tác quản lý người bệnh lao kháng thuốc cũng gặp nhiều khó khăn. Mục tiêu: Mô tả thực trạng quản lý người bệnh lao kháng đa thuốc tại thành phố Hà Nội, giai đoạn 2011-2014. Phân tích thuận lợi, khó khăn trong công tác quản lý người bệnh lao kháng đa thuốc tại Hà Nội, giai đoạn 2011-2014. Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang, định lượng kết hợp định tính. Kết quả và kết luận: 7,3% người bệnh LKT là điều trị mới, còn lại 92,7% người bệnh LKT đã từng điều trị lao trước đó. Gần 50% người bệnh LKT được quản lý, điều trị sau 1 ngày phát hiện, số còn lại được tiếp nhận sau từ 2 ngày trở lên. 5,2% NB điều trị nội trú tại bệnh viện Phổi Hà Nội, còn lại 94,8% NB điều trị ngoại trú tại tuyến xã/phường và quận/huyện.
#Quản lý #lao kháng đa thuốc #thuận lợi #khó khăn.
Tổng số: 22   
  • 1
  • 2
  • 3