Lao kháng thuốc là gì? Các công bố khoa học về Lao kháng thuốc

Lao kháng thuốc là dạng vi khuẩn Mycobacterium tuberculosis đề kháng với ít nhất một thuốc chống lao, gây khó khăn cho điều trị. Nguyên nhân chính do sử dụng thuốc không đúng cách, điều trị không đầy đủ, liều lượng sai, chất lượng thuốc kém, và lây nhiễm từ người khác. Loại lao này phân thành lao đa kháng thuốc (MDR-TB) và lao siêu kháng thuốc (XDR-TB). Triệu chứng giống lao thông thường nhưng kéo dài và nặng hơn. Chẩn đoán và điều trị cần xét nghiệm phức tạp và thời gian điều trị dài. Phòng ngừa yêu cầu điều trị đúng, tuân thủ liệu trình, và giám sát kháng thuốc.

Lao kháng thuốc: Tổng quan

Lao kháng thuốc là một biến thể của bệnh lao gây ra bởi vi khuẩn Mycobacterium tuberculosis. Không giống như lao thông thường, lao kháng thuốc đề kháng với ít nhất một trong các loại thuốc chính được sử dụng để điều trị bệnh lao, điều này làm phức tạp quá trình điều trị và kiểm soát bệnh dịch. Lao kháng thuốc là một trong những thách thức lớn đối với y tế công cộng trên toàn cầu.

Nguyên nhân của Lao kháng thuốc

Lao kháng thuốc xuất hiện do nhiều nguyên nhân, trong đó quan trọng nhất là việc sử dụng không đúng cách thuốc chống lao. Các yếu tố góp phần bao gồm:

  • Điều trị không đầy đủ: Việc không hoàn thành liệu trình điều trị hoặc dùng thuốc không đều có thể dẫn đến sự phát triển của vi khuẩn kháng thuốc.
  • Liều lượng không đúng: Sử dụng liều thuốc không đúng hoặc công thức không thích hợp có thể không diệt được vi khuẩn hoàn toàn.
  • Chất lượng thuốc kém: Thuốc kém chất lượng, hết hạn sử dụng có thể mất tác dụng, không đạt hiệu quả điều trị mong muốn.
  • Lây nhiễm từ bệnh nhân khác: Những người đã nhiễm vi khuẩn lao kháng thuốc có thể lây lan bệnh cho người khác.

Phân loại Lao kháng thuốc

Lao kháng thuốc được phân loại dựa trên mức độ kháng thuốc của vi khuẩn:

  • Lao đa kháng thuốc (MDR-TB): Đề kháng với ít nhất là isoniazid và rifampicin, hai trong số các thuốc chống lao mạnh nhất.
  • Lao siêu kháng thuốc (XDR-TB): Không chỉ kháng isoniazid và rifampicin, mà còn kháng thêm với bất kỳ fluoroquinolone và ít nhất một trong ba thuốc tiêm hàng thứ hai (amikacin, kanamycin, hoặc capreomycin).

Triệu chứng của Lao kháng thuốc

Triệu chứng của lao kháng thuốc tương tự như lao thông thường, bao gồm ho kéo dài, sốt, đổ mồ hôi đêm, giảm cân, và mệt mỏi. Tuy nhiên, triệu chứng có thể kéo dài lâu hơn và nặng hơn so với lao thông thường.

Phương pháp chẩn đoán và điều trị

Chẩn đoán lao kháng thuốc thường yêu cầu các xét nghiệm phức tạp hơn so với lao thông thường, chẳng hạn như nuôi cấy vi khuẩn và thử nghiệm kháng sinh đồ. Điều trị bao gồm sử dụng một tổ hợp các thuốc chống lao hàng thứ hai trong một thời gian dài hơn, có thể kéo dài từ 18 đến 24 tháng.

Phòng ngừa Lao kháng thuốc

Phòng ngừa lao kháng thuốc dựa trên việc đảm bảo điều trị đúng cách cho tất cả các ca bệnh lao, bao gồm việc sử dụng đúng liều, duy trì tuân thủ điều trị, và hạn chế tối đa nguy cơ lây nhiễm. Xây dựng hệ thống giám sát và quản lý tốc độ kháng thuốc cũng rất cần thiết để kiểm soát lao kháng thuốc.

Kết luận

Lao kháng thuốc là một thách thức nghiêm trọng đối với sức khỏe cộng đồng toàn cầu. Quản lý hiệu quả lao kháng thuốc đòi hỏi sự phối hợp giữa các ngành y tế, khoa học và xã hội để đảm bảo bệnh nhân có cơ hội được điều trị đúng cách và ngăn ngừa sự lây lan trong cộng đồng.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "lao kháng thuốc":

Phân Tích Mẫu Máu Khô cho Giám Sát Liều Thuốc Linezolid ở Bệnh Nhân Lao Kháng Thuốc Đa Phương Dịch bởi AI
Antimicrobial Agents and Chemotherapy - Tập 56 Số 11 - Trang 5758-5763 - 2012
TÓM TẮT

Linezolid là một loại tác nhân kháng khuẩn tiềm năng trong điều trị bệnh lao đa kháng thuốc (MDR-TB), nhưng việc sử dụng nó bị hạn chế do độc tính. Giám sát liều thuốc điều trị (TDM) có thể giúp giảm thiểu độc tính trong khi vẫn duy trì sự phơi nhiễm thuốc thích hợp. Việc lấy mẫu và theo dõi thông qua huyết tương thông thường có thể gặp trở ngại ở nhiều nơi trên thế giới do các vấn đề về logistics mà có thể giải quyết được bằng cách lấy mẫu máu khô (DBS). Mục tiêu của nghiên cứu này là phát triển và xác thức một phương pháp mới để TDM của linezolid ở các bệnh nhân MDR-TB bằng cách sử dụng lấy mẫu DBS. Mẫu huyết tương, DBS từ tĩnh mạch và DBS từ mao quản được thu thập đồng thời từ tám bệnh nhân đang nhận linezolid. Một phương pháp lấy mẫu DBS đã được phát triển và xác nhận lâm sàng bằng cách so sánh DBS với kết quả huyết tương sử dụng hồi quy Passing-Bablok và phân tích Bland-Altman. Nghiên cứu này cho thấy phân tích DBS là có thể tái sản xuất và ổn định. Độ chính xác và giá trị độ chính xác giữa các ngày và trong ngày từ ba lần xác nhận được trình bày dưới dạng độ lệch và hệ số biến thiên (CV) ít hơn 17.2% đối với giới hạn dưới của định lượng và ít hơn 7.8% đối với các mức khác. Phương pháp cho thấy khả năng thu hồi cao khoảng 95% và tác động ma trận thấp dưới 8.7%. Mẫu DBS ổn định ở 37°C trong 2 tháng và ở 50°C trong 1 tuần. Tỷ lệ nồng độ của linezolid trong mẫu DBS so với trong huyết tương là 1.2 (khoảng tin cậy 95% [CI], 1.12 đến 1.27). Sự phơi nhiễm linezolid được tính toán từ các nồng độ mẫu DBS và huyết tương cho thấy sự tương đồng tốt. Kết luận, phân tích DBS của linezolid là một công cụ đầy hứa hẹn để tối ưu hóa điều trị linezolid ở bệnh nhân MDR-TB. Quy trình lấy mẫu dễ dàng và độ ổn định của mẫu cao có thể thuận lợi cho TDM, thậm chí ở những nước kém phát triển có nguồn lực hạn chế và việc lấy mẫu huyết tương thông thường không khả thi.

#DBS #giám sát thuốc điều trị #linezolid #lao đa kháng thuốc #mẫu máu khô.
Các yếu tố nguy cơ hành vi xã hội đối với bệnh lao kháng thuốc tại Trung Quốc đại lục: Một phân tích tổng hợp Dịch bởi AI
Journal of International Medical Research - Tập 40 Số 2 - Trang 436-445 - 2012

MỤC TIÊU: Xác định các yếu tố nguy cơ liên quan đến bệnh lao kháng thuốc (TB) tại Trung Quốc đại lục. PHƯƠNG PHÁP: Tìm kiếm trên các cơ sở dữ liệu PubMed và Chinese BioMedical. Các nghiên cứu đoàn hệ, trường hợp - đối chứng và cắt ngang cung cấp ước lượng tác động của các yếu tố nguy cơ cho lao kháng thuốc hoặc lao kháng đa thuốc (MDR) được đưa vào phân tích. KẾT QUẢ: Phân tích tổng hợp bao gồm 16 nghiên cứu. Lao kháng thuốc có liên quan đáng kể đến chất lượng điều trị trực tiếp được quan sát (DOTS) kém (tỉ lệ odds [OR] 2.65, khoảng tin cậy [CI] 95% 1.22, 5.79), bệnh kéo dài > 1 năm (OR 2.71, 95% CI 1.34, 5.48), tuân thủ điều trị kém (OR 2.00, 95% CI 1.17, 3.40), điều trị trước đó (OR 4.54, 95% CI 2.71, 7.61) và tuổi từ 40 – 60 (OR 1.62, 95% CI 1.10, 2.38). Lao MDR có liên quan đáng kể với DOTS chất lượng kém (OR 1.84, 95% CI 1.36, 2.49), tuân thủ điều trị kém (OR 4.39, 95% CI 2.97, 6.50), điều trị trước đó (OR 3.83, 95% CI 2.12, 6.89) và nghèo đói (OR 1.87, 95% CI 1.38, 2.52). KẾT LUẬN: Việc điều trị trước đó, DOTS kém chất lượng, tuân thủ điều trị kém, bệnh kéo dài, tuổi từ 40 – 60 và nghèo đói có liên quan đến nguy cơ cao hơn của bệnh lao kháng thuốc tại Trung Quốc đại lục.

#lao kháng thuốc #lao kháng đa thuốc #Trung Quốc #yếu tố nguy cơ #phân tích tổng hợp
Bệnh lao kháng đa thuốc ở người nhận ghép tủy xương Dịch bởi AI
Transplant Infectious Disease - Tập 7 Số 1 - Trang 45-46 - 2005

Tóm tắt: Bệnh lao kháng đa thuốc (TB) đang ngày càng trở thành một vấn đề lớn trên toàn thế giới, tuy nhiên chỉ có ba trường hợp được mô tả trước đây ở những người nhận ghép, đặc biệt liên quan đến ghép phổi và tim. Chúng tôi mô tả một trường hợp bệnh lao kháng đa thuốc ở một bệnh nhân nhận ghép tủy xương đồng loại với phản ứng tốt đối với liệu pháp điều trị hàng thứ hai.

#bệnh lao kháng đa thuốc #ghép tủy xương #điều trị hàng thứ hai #người nhận ghép
Tận dụng công nghệ mHealth mới để Tăng cường Quản lý Bệnh Lao Kháng Đa thuốc tại Việt Nam (thử nghiệm V-SMART): một giao thức cho thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng Dịch bởi AI
BMJ Open - Tập 12 Số 6 - Trang e052633 - 2022
Giới thiệu Lao kháng đa thuốc (MDR-TB) vẫn là một vấn đề sức khỏe cộng đồng lớn toàn cầu. Các phác đồ điều trị dài và phức tạp, kết hợp với các sự kiện bất lợi thường xuyên, đã dẫn đến việc tuân thủ điều trị kém và kết quả điều trị không tốt. Các công nghệ sức khỏe di động (mHealth) dựa trên smartphone cung cấp cho các chương trình lao quốc gia một nền tảng hấp dẫn để cải thiện chăm sóc và quản lý bệnh nhân; tuy nhiên, bằng chứng từ các nghiên cứu lâm sàng để hỗ trợ việc sử dụng chúng còn thiếu. Thử nghiệm này sẽ kiểm tra giả thuyết rằng một can thiệp mHealth có thể cải thiện tỷ lệ thành công trong điều trị ở những bệnh nhân mắc MDR-TB và có hiệu quả chi phí so với thực hành tiêu chuẩn. Phương pháp và phân tích Một thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng, mù mở, nhóm song song sẽ được thực hiện trên những bệnh nhân được điều trị lao MDR-TB tại bảy tỉnh của Việt Nam. Những bệnh nhân bắt đầu điều trị cho lao kháng rifampicin hoặc lao kháng đa thuốc đã được xác nhận vi sinh học trong vòng 30 ngày qua sẽ được tuyển chọn vào nghiên cứu. Các tham gia sẽ được ngẫu nhiên hóa vào một nhóm can thiệp, bao gồm việc sử dụng một ứng dụng mHealth để hỗ trợ điều trị, hoặc một nhóm 'chăm sóc tiêu chuẩn'. Trong cả hai nhóm, bệnh nhân sẽ được quản lý bởi chương trình lao quốc gia theo các hướng dẫn điều trị quốc gia hiện hành. Biện pháp kết quả chính của hiệu quả sẽ là tỷ lệ bệnh nhân thành công trong điều trị (được định nghĩa là hoàn thành điều trị và/hoặc chữa khỏi vi sinh) sau 24 tháng. Một mô hình hồi quy Poisson biên giới được ước tính thông qua một phương pháp ước lượng tổng quát sẽ được sử dụng để kiểm tra tác động của can thiệp lên thành công điều trị. Một phân tích chi phí hiệu quả theo kiểu microcosting và phân tích hiệu quả chi phí trong thử nghiệm cũng sẽ được thực hiện từ góc độ xã hội. Hiệu quả chi phí sẽ được trình bày dưới dạng chi phí gia tăng cho mỗi bệnh nhân được điều trị thành công và chi phí gia tăng cho mỗi năm sống điều chỉnh theo chất lượng nhận được. Đạo đức Sự chấp thuận đạo đức cho nghiên cứu đã được cấp bởi Ủy ban Đạo đức Nghiên cứu Nhân học của Đại học Sydney (2019/676). Phát tán Các phát hiện của nghiên cứu sẽ được phát tán đến các tham gia và được công bố trong các tạp chí đánh peer và tài liệu hội nghị.
#MDR-TB #mHealth #nghiên cứu lâm sàng #quản lý bệnh lao #hiệu quả chi phí
BỆNH LAO KHÁNG RIFAMPICIN TẠI THÁI NGUYÊN
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 500 Số 2 - 2021
Mục tiêu: mô tả đặc điểm lâm sàng và phân tích một số yếu tố liên quan đến kết quả điều trị RR-TB. Phương pháp: nghiên cứu mô tả, thời gian từ 2016 – 2020 tại Bệnh viện Lao và bệnh Phổi Thái Nguyên. Chọn mẫu toàn bộ bệnh nhân xét nghiệm Xpert MTB/RIF có RR-TB điều trị phác đồ chuẩn 11 tháng 4-6 Km Lfx Pto Cfz Z H liều cao E/5 Lfx Cfz Z E. Kết quả: có 948/4187 (22,6%) MTB/RIF (+), thu được 83/948 (8,8%), RR-TB có nguồn là thể lao mới chiếm 27/675 (4%); thể lao cũ là 43/215 (20%) và thể lao ngoài phổi là 13/58 (1,2%). Có 60 (72,3%) RR-TB điều trị phác đồ 11 tháng. Kết quả điều trị tốt đạt 48 (80%) và kém là 12 (20%). Kết luận: RR-TB thường gặp nhiều ở nhóm tuổi trung niên, thể lao cũ, soi đờm có AFB (+), tổn thương Xquang Phổi rộng. Các yếu tố ảnh hưởng kém đến kết quả điều trị RR-TB là: thể lao cũ, khám phổi có ran, soi đờm có AFB (+), Xquang Phổi có hang.
#Bệnh Lao #Kháng thuốc #Đa kháng thuốc #Xpert mtb/rif #Thái Nguyên
NGHIÊN CỨU MỘT SỐ YẾU TỐ NGUY CƠ CỦA LAO PHỔI KHÁNG RIFAMPICIN TẠI TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
Tạp chí Truyền nhiễm Việt Nam - Tập 2 Số 42 - Trang 41-46 - 2023
Mở đầu: Lao kháng thuốc là mối quan tâm lớn về sức khỏe cộng đồng ở nhiều quốc gia. Bệnh lao kháng rifampicin là một trong những yếu tố dự báo cho bệnh lao đa kháng thuốc vì hơn 90% bệnh lao kháng rifampicin có kháng isoniazid kèm theo. Mục tiêu: 1. Mô tả các đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của bệnh nhân lao phổi kháng rifampicin. 2. Tìm hiểu một số yếu tố nguy cơ ở bệnh nhân lao phổi kháng rifampicin. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 157 bệnh nhân lao phổi được chẩn đoán bằng xét nghiệm Xpert MTB/RIF tại Bệnh viện Trung ương Huế và Bệnh viện Phổi tỉnh Thừa Thiên Huế từ tháng 01/2021 đến 9/2022. Kết quả: Nam giới chiếm đa số trong nhóm nghiên cứu (90,3%), độ tuổi trung bình: 48,19 ± 2,997, chỉ số BMI ≤ 18,5 kg/m2 (61,3%), có tiền sử điều trị với thuốc kháng lao (64,5%). Các triệu chứng toàn thân thường gặp: mệt mỏi (74,2%), chán ăn (71%), sụt cân (71%). Các triệu chứng cơ năng thường gặp: ho khạc đờm kéo dài (77,4%), khó thở (51,6%), đau ngực (67,7%), ho ra máu (16,1%). Lao phổi kháng rifampicin hầu hết đều có triệu chứng thực thể tại phổi (80,6%). Xét nghiệm AFB đờm thường dương tính (64,5%) với mức độ dương tính là 1+ (45%), 2+ (30%), 3+ (20%). Mức độ tổn thương theo ATS trên X quang ngực thẳng thường gặp ở mức độ II (45,2%), độ III (48,4%), vị trí tổn thương có xu hướng lan tỏa (51,6%) với các tổn thương: thâm nhiễm (96,8%), xơ (51,6%), nốt (19,4%), hang (41,9%). Có mối liên quan giữa lao phổi kháng rifampicin và có tiền sử điều trị lao (OR = 10,557, 95%CI: 3,263 - 34,150), có triệu chứng thực thể tại phổi (OR = 4,159, 95%CI: 1,016 - 17,031) kèm tổn thương hang (OR = 6,415, 95%CI: 1,819 - 22,624) và nốt (OR = 10,649, 95%CI: 1,438 - 78,846) trên phim X quang ngực thẳng. Kết luận: Có mối liên quan giữa lao phổi kháng rifampicin và có tiền sử điều trị lao, có triệu chứng thực thể tại phổi, kèm tổn thương hang hoặc nốt trên phim X quang ngực thẳng.
#Lao phổi #lao kháng thuốc #rifampicin
Ứng dụng mHealth để cải thiện kết quả điều trị cho bệnh nhân lao kháng đa thuốc tại Việt Nam: giao thức đánh giá kinh tế cho thử nghiệm V-SMART Dịch bởi AI
BMJ Open - Tập 13 Số 12 - Trang e076778 - 2023
Giới thiệu Thử nghiệm Tăng cường Quản lý Lao Kháng Đa Thuốc tại Việt Nam (V-SMART) là một thử nghiệm ngẫu nhiên có kiểm soát về việc sử dụng công nghệ chăm sóc sức khoẻ di động (mHealth) nhằm cải thiện sự tuân thủ điều trị và quản lý các sự kiện bất lợi (AE) ở những người mắc lao kháng đa thuốc (MDR-TB) đang được điều trị tại Việt Nam. Đánh giá kinh tế này nhằm định lượng hiệu quả chi phí của can thiệp mHealth này từ góc độ nhà cung cấp dịch vụ y tế và xã hội. Phương pháp và phân tích Thử nghiệm V-SMART sẽ tuyển dụng 902 bệnh nhân điều trị lao MDR-TB tại bảy tỉnh tham gia ở Việt Nam. Các tham gia viên trong cả nhóm can thiệp và nhóm đối chứng sẽ nhận được liệu pháp chuẩn dựa vào cộng đồng cho lao MDR-TB. Các tham gia viên trong nhóm can thiệp cũng sẽ có một ứng dụng được thiết kế riêng cài đặt trên smartphone của họ để báo cáo các AE cho nhân viên y tế và tạo điều kiện quản lý kịp thời các AE. Đánh giá kinh tế này sẽ so sánh chi phí và kết quả sức khoẻ giữa nhóm can thiệp (mHealth) và nhóm đối chứng (chuẩn điều trị). Chi phí liên quan đến việc thực hiện can thiệp và sử dụng dịch vụ y tế sẽ được ghi lại, cũng như chi phí tự chi trả của bệnh nhân. Chất lượng cuộc sống liên quan đến sức khỏe (HRQoL) của các tham gia viên nghiên cứu sẽ được ghi nhận bằng bảng hỏi 36 mục (SF-36) và được sử dụng để tính toán năm điều chỉnh theo chất lượng (QALYs). Tỷ lệ hiệu quả chi phí gia tăng (ICERs) sẽ được dựa trên kết quả chính (tỷ lệ bệnh nhân thành công điều trị sau 24 tháng) và QALYs đã đạt được. Phân tích nhạy cảm sẽ được thực hiện để kiểm tra tính ổn định của các ICERs. Một phân tích tác động ngân sách sẽ được thực hiện từ góc độ người chi trả để cung cấp một ước lượng về tổng ngân sách cần thiết để mở rộng việc thực hiện can thiệp. Đạo đức và phổ biến Phê duyệt đạo đức cho nghiên cứu đã được cấp bởi Ủy ban Đạo đức Nghiên cứu Con người Đại học Sydney (2019/676), Ủy ban Khoa học của Bộ Khoa học và Công nghệ, Việt Nam (08/QD-HDQL-NAFOSTED) và Hội đồng Đánh giá Đạo đức Bệnh viện Phổi Quốc gia, Việt Nam (13/19/CT-HDDD). Các kết quả nghiên cứu sẽ được công bố trên các tạp chí có phản biện và tài liệu hội nghị.
MỐI TƯƠNG QUAN GIỮA ĐẶC ĐIỂM KHÁNG THUỐC LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG CỦA BỆNH NHÂN LAO PHỔI TÁI PHÁT SAU 2 THÁNG ĐIỀU TRỊ
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 499 Số 1-2 - 2021
Mục tiêu: Nghiên cứu mối tương quan giữa đặc điểm kháng thuốc với lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh nhân lao phổi tái phát. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu, mô tả cắt ngang, theo dõi dọc trên 56 bệnh nhân lao phổi tái phát được đăng ký điều trị nội, ngoại trú tại Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch, thành phố Hồ Chí Minh, trong thời gian 02 tháng. Kết quả: Các triệu chứng sốt, ho, khó thở gặp nhiều ở bệnh nhân đơn kháng. X quang: Tổn thương mức độ hẹp BN lao phổi đa kháng cao hơn nhóm đơn kháng( 50% so với 25%). Mức độ vừa và mức độ rộng chỉ gặp ở nhóm đơn kháng (kháng INH), không gặp ở nhóm đa kháng. Hang lao gặp 100% ở bệnh nhân đa kháng, đơn kháng gặp 25%. Mức độ AFB đờm liên quan tới đặc điểm kháng thuốc: Nhóm BN AFB (1+) có 7 BN nhóm kháng INH và 3 BN nhóm kháng RMP + INH. BN AFB (2+) gặp nhóm kháng INH là 3 BN và nhóm kháng RMP + INH là 1 BN. BNAFB (3+), gặp 2 BN ở nhóm kháng INH, và 1 BN ở nhóm kháng RMP + INH. Nhóm BN kháng INH và kháng RMP + INH không có sự khác biệt về mối liên quan giữa các mức độ AFB (+). Kết luận: Lao phổi kháng thuốc có nhiều điểm khác biệt về lâm sàng và cận lâm sàng so với lao phổi mới. Việc đánh giá mối tương quang giữa LS, CLS với đặc tính kháng thuốc của lao phổi có nhiều ý nghĩa cho việc điều trị và dự phòng lao.
#Lao phổi kháng thuốc #lao đa kháng #lao đơn kháng #lao tái phát
ĐẶC ĐIỂM KIỂU HÌNH KHÁNG THUỐC CỦA VI KHUẨN LAO TRÊN BỆNH NHÂN LAO PHỔI KHÁNG THUỐC HÀNG 1 TẠI TỈNH BẾN TRE
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 546 Số 1 - Trang - 2025
Đặt vấn đề: bệnh lao kháng thuốc đến nay vẫn là vấn đề đáng lo ngại, tỷ lệ mắc và tử vong gia tăng trên thế giới, ở Việt Nam và cả ở Bến Tre. Hiện nay việc xác định tình hình kháng thuốc giúp góp phần cải thiện tình trạng mắc lao kháng thuốc. Mục tiêu nghiên cứu: đánh giá kiểu hình kháng thuốc và một số yếu tố liên quan trên bệnh nhân lao phổi kháng thuốc hàng 1 tại Bến Tre. Phương pháp nghiên cứu: 60 chủng vi khuẩn lao kháng thuốc hàng 1 thu nhận tại Bến Tre 2021-2024, dựa vào kết quả xét nghiệm GeneXpert có Mycobacterium Tuberculosis và kháng Rifampicin, đồng thời kết quả nuôi cấy môi trường lỏng (MGIT) cho kết quả (+) và kháng sinh đồ có kháng bất kỳ thuốc lao hàng 1: rifampicin (R), isoniazid (H), streptomycin (S), ethambutol (E). Kết quả: đa số là nam giới chiếm 86,7%, tuổi trung bình là 50,23±14,41. Người bệnh đa kháng chiếm tỷ lệ cao nhất với 68,3%, trong đó kháng bốn thuốc RHZE chiếm đa số. Tỷ lệ người bệnh đơn kháng chiếm 18,3%, và kháng nhiều thuốc chiếm 13,4%. Kháng R, H, S và E lần lượt là 80%; 83,3%; 81,7% và 45%. Tỷ lệ nữ mắc lao đa kháng cao hơn nam giới (100% so với 63,5%), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05. So với nhóm >60 tuổi, nhóm tuổi >20-40 mắc lao kháng thuốc cao gấp gần 13 lần, sự khác biệt đều có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Kết luận: bệnh nhân lao phổi kháng thuốc hàng 1 thường gặp ở nam giới độ tuổi trung niên, kiểu hình lao kháng thuốc hàng 1 tại tỉnh Bến Tre cho thấy tỷ lệ lao đa kháng thuốc chiếm ưu thế, trong đó đa số là tỷ lệ kháng 4 thuốc (RHSE). Nữ giới có tỷ lệ mắc lao đa kháng cao hơn nam giới, và nhóm trẻ tuổi >20-40 có nguy cơ mắc lao đa kháng cao.
#Bệnh lao #Kháng thuốc hàng 1 #Lao đa kháng #Bến Tre.
ĐÁNH GIÁ TÍNH AN TOÀN CỦA ĐIỀU TRỊ LAO PHỔI KHÁNG ĐA THUỐC ĐƠN THUẦN BẰNG PHÁC ĐỒ NGẮN HẠN TẠI BỆNH VIỆN PHỔI HÀ NỘI
Tạp chí Y học Cộng đồng - Tập 60 Số 7 - 2021
Mục tiêu: Nghiên cứu được tiến hành nhằm mụctiêu mô tả đặc điểm lâm sàng của người lao phổi khángđa thuốc đơn thuần và đánh giá tính an toàn của phác đồđiều trị ngắn hạn trong điều trị lao phổi kháng đa thuốcđơn thuần.Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu thuần tậpđược tiến hành trên 124 người bệnh lao phổi kháng đathuốc đơn thuần, được điều trị bằng phác đồ chuẩn ngắnhạn tại Bệnh viện Phổi Hà Nội từ tháng 04 năm 2016 đếntháng 12 năm 2018.Kết quả: Kết quả soi đờm trực tiếp AFB(-) 47,6%,AFB(3+) 5,6%, AFB(2+) 7,3%, AFB(1+) 35,5% và 1-9AFB/100VT là 4,0%. Người bệnh có tổn thương phổi trênXquang dạng xơ là 70,2%, nốt 67,7%, thâm nhiễm 56,5%,hang 16,9%. Tổn thương ở cả hai phổi là 62,9%. Phác đồđược đánh giá là an toàn trên 58,9%. Tỷ lệ đầy bụng khótiêu 10,5%, nôn, buồn nôn 8,9%, chóng mặt 8,9%, chánăn 8,1%, đau khớp 4,8%, giảm thính lực 4,3%.Kết luận: Phác đồ điều trị chuẩn ngắn hạn là phácđồ có tính an toàn với các tác dụng không mong muốnthấp. Các triệu chứng nay đều trở về bình thường sau khikết thúc điều trị.Từ khóa: Người bệnh lao phổi đa kháng thuốc;Bệnh viện Phổi Hà Nội
#Người bệnh lao phổi đa kháng thuốc; Bệnh viện Phổi Hà Nội
Tổng số: 38   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4